Thông báo:
Thái Bình, ngày 30 tháng 1 năm 2025
QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ HÒA GIẢI VIÊN
Ngày: 24/07/2023

Hòa giải ở cơ sở là phương thức giải quyết các mâu thuẫn, tranh chấp, xung đột nhỏ có từ lâu đời, mang ý nghĩa xã hội, nhân văn sâu sắc, được Nhà nước thừa nhận, khuyến khích và tạo điều kiện phát triển. Bằng hoạt động hòa giải, hàng năm, đội ngũ hòa giải viên trên cả nước đã thực hiện giải quyết một lượng lớn các mâu thuẫn, tranh chấp, vi phạm pháp luật trong cộng đồng dân cư, góp phần củng cố, phát triển khối đoàn kết, đạo lý truyền thống tốt đẹp của dân tộc; thực hiện dân chủ hóa đời sống của người dân tại cộng đồng; nâng cao nhận thức, ý thức chấp hành pháp luật của nhân dân; giảm vi phạm pháp luật, khiếu nại, tố cáo, áp lực cho cơ quan nhà nước; tiết kiệm thời gian, công sức, tiền của cho Nhà nước và nhân dân; giữ gìn trật tự, an toàn xã hội, tạo sự đồng thuận xã hội, ổn định, phát triển đất nước… Hòa giải viên ở cơ sở là người trực tiếp thực hiện hoạt động hòa giải, có vai trò hướng dẫn, giúp đỡ kiến tạo, tổ chức, thực hiện, kiểm soát quá trình thực hiện hòa giải, là nhân vật trung tâm của hoạt động này. Do vậy, để nâng cao hiệu quả, vị thế của công tác hòa giải ở cơ sở trong đời sống xã hội thì đội ngũ hòa giải viên phải đáp ứng những tiêu chuẩn, điều kiện nhất định. Luật hòa giải ở cơ sở năm 2013 đã có những quy định cụ thể đối với hòa giải viên như sau:

1. Tiêu chuẩn của hòa giải viên ở cơ sở

Điều 7 Luật Hòa giải ở cơ sở năm 2013 quy định hòa giải viên ở cơ sở phải đáp ứng những tiêu chuẩn, điều kiện sau:

- Phải là công dân Việt Nam thường trú tại cơ sở;

- Tự nguyện tham gia hoạt động hòa giải;

- Có phẩm chất đạo đức tốt;

- Có uy tín trong cộng đồng dân cư;

- Có khả năng thuyết phục, vận động nhân dân;

- Có hiểu biết pháp luật.

2. Quyền và nghĩa vụ của hòa giải viên

          * Để bảo đảm cho hòa giải viên ở cơ sở hoạt động có chất lượng, hiệu quả, Luật Hòa giải ở cơ sở quy định hòa giải viên ở cơ sở có quyền:

- Thực hiện hoạt động hòa giải ở cơ sở;

- Đề nghị các bên có liên quan cung cấp tài liệu, thông tin liên quan đến vụ, việc hòa giải;

- Tham gia sinh hoạt, thảo luận và quyết định nội dung, phương thức hoạt động của tổ hòa giải;

- Được bồi dưỡng kiến thức pháp luật, nghiệp vụ và kỹ năng hòa giải; được cung cấp tài liệu liên quan đến hoạt động hòa giải;

- Hưởng thù lao theo vụ, việc khi thực hiện hòa giải;

- Được khen thưởng theo quy định của pháp luật về thi đua, khen thưởng;

- Được hỗ trợ, tạo điều kiện để khắc phục hậu quả nếu gặp tai nạn hoặc rủi ro ảnh hưởng đến sức khỏe, tính mạng trong khi thực hiện hoạt động hòa giải;

- Kiến nghị, đề xuất về các vấn đề liên quan đến hoạt động hòa giải.

          Việc quy định nhiều quyền lợi của hòa giải viên xuất phát từ vai trò, ý nghĩa của hoạt động hòa giải cơ sở thời gian qua, đồng thời khẳng định những đóng góp không nhỏ của hòa giải viên trong việc giải quyết mâu thuẫn, tranh chấp nhỏ trong cộng đồng dân cư.

* Bên cạnh các quyền cơ bản, hòa giải viên còn có các nghĩa vụ:

- Thực hiện hòa giải khi có căn cứ theo quy định;

- Tuân thủ các nguyên tắc theo quy định của pháp luật;

- Từ chối tiến hành hòa giải nếu bản thân có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đến vụ, việc hòa giải hoặc vì lý do khác dẫn đến không thể bảo đảm khách quan, công bằng trong hòa giải;

- Thông báo kịp thời cho tổ trưởng tổ hòa giải để báo cáo Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã có biện pháp phòng ngừa trong trường hợp thấy mâu thuẫn, tranh chấp nghiêm trọng có thể dẫn đến hành vi bạo lực gây ảnh hưởng đến sức khoẻ, tính mạng của các bên hoặc gây mất trật tự công cộng;

- Thông báo kịp thời cho tổ trưởng tổ hòa giải để báo cáo cơ quan có thẩm quyền xử lý trong trường hợp phát hiện mâu thuẫn, tranh chấp có dấu hiệu vi phạm pháp luật về xử lý vi phạm hành chính hoặc pháp luật về hình sự.

         

          3. Bầu và công nhận hòa giải viên

Điều 12 Nghị quyết liên tịch 01/2014/NQLT/CP-UBTƯMTTQVN ngày 18/11/2014 của Chính phủ và Ủy ban Trung ương mặt trận tổ quốc Việt Nam  hướng dẫn phối hợp thực hiện một số quy định của pháp luật về hòa giải ở cơ sở, quy định về quy trình để bầu hòa giải viên ở cơ sở được tiến hành theo 03 bước sau:

          Bước 1: Chuẩn bị bầu hòa giải viên

          Trước ngày dự kiến bầu hòa giải viên 20 ngày, Trưởng ban công tác Mặt trận chủ trì, phối hợp với trưởng thôn, tổ trưởng tổ dân phố, đại diện các tổ chức thành viên của Mặt trận sẽ tiến hành:

          - Dự kiến những người được bầu làm hòa giải viên;

          - Thống nhất thời gian bầu hòa giải viên;

          - Quyết định hình thức bầu hòa giải viên;

          - Quyết định danh sách Tổ bầu hòa giải viên do Trưởng ban công tác Mặt trận làm tổ trưởng, trưởng thôn, tổ trưởng tổ dân phố làm phó tổ trưởng, một số trưởng các chi, tổ, hội của thôn, tổ dân phố là thành viên.

          Tổ bầu hòa giải viên lập danh sách những người dự kiến bầu làm hòa giải viên (sau đây gọi tắt là danh sách bầu hòa giải viên) sau khi đã trao đổi, động viên và nhận được sự đồng ý của những người được giới thiệu bầu làm hòa giải viên.

          Trường hợp thành lập Tổ hòa giải mới, danh sách bầu hòa giải viên ít nhất bằng với số lượng hòa giải viên đã được Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã quyết định, trong đó có hòa giải viên nữ. Đối với vùng có nhiều đồng bào dân tộc thiểu số, danh sách bầu hòa giải viên phải có người dân tộc thiểu số;

          Bên cạnh đó,để đảm bảo tính dân chủ, minh bạch, pháp luật quy định danh sách bầu hòa giải viên được thông báo công khai tại thôn, tổ dân phố trong thời hạn 07 ngày, trước ngày bầu hòa giải viên. Trường hợp có ý kiến phản ánh về danh sách bầu hòa giải viên, thì Trưởng ban công tác Mặt trận xem xét, giải quyết.

          Bước 2: Tổ chức bầu hòa giải viên

Có hai hình thức bầu hòa giải viên:

- Thứ nhất, biểu quyết công khai hoặc bỏ phiếu kín tại cuộc họp đại diện các hộ gia đình trong thôn, tổ dân phố. Hình thức này được tiến hành khi có trên 50% đại diện các hộ gia đình trong thôn, tổ dân phố trở lên tham dự và thực hiện như sau:

          Đại diện Tổ bầu hòa giải viên giới thiệu danh sách Tổ bầu hòa giải viên; tiêu chuẩn của hòa giải viên; danh sách bầu hòa giải viên; thống nhất hình thức bầu hòa giải viên tại cuộc họp.

          Trường hợp bầu hòa giải viên bằng hình thức biểu quyết công khai, Tổ bầu hòa giải viên trực tiếp đếm số người biểu quyết và lập biên bản về kết quả biểu quyết

          Trường hợp bầu hòa giải viên bằng hình thức bỏ phiếu kín, Tổ bầu hòa giải viên làm nhiệm vụ phát phiếu, phổ biến quy chế bỏ phiếu, thu nhận phiếu và kiểm phiếu ngay sau khi kết thúc việc bỏ phiếu với sự có mặt chứng kiến của ít nhất 01 đại diện hộ gia đình không có thành viên trong danh sách bầu hòa giải viên; lập biên bản kiểm phiếu

          - Thứ hai, bầu hòa giải viên bằng hình thức phát phiếu lấy ý kiến các hộ gia đình trong thôn: Tổ dân phố Tổ bầu hòa giải viên phát phiếu bầu đến các hộ gia đình, thu nhận lại phiếu bầu và kiểm phiếu với sự có mặt chứng kiến của ít nhất 01 đại diện hộ gia đình không có thành viên trong danh sách bầu hòa giải viên, lập biên bản kiểm phiếu.

          Bước 3: Kết quả bầu hòa giải viên

          - Người được đề nghị công nhận là hòa giải viên phải đạt trên 50% đại diện hộ gia đình trong thôn, tổ dân phố đồng ý. Trường hợp số người đạt trên 50%  phiếu đồng ý nhiều hơn số lượng hòa giải viên dự kiến, thì  lấy theo kết quả bỏ phiếu từ cao xuống thấp.

          Sau khi có kết quả, Trưởng ban công tác Mặt trận lập danh sách người được đề nghị công nhận là hòa giải viên kèm theo biên bản kiểm phiếu hoặc biên bản về kết quả biểu quyết bầu hòa giải viên gửi Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã. Trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được danh sách người được đề nghị công nhận hòa giải viên, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã xem xét, quyết định;

          - Việc bầu lại hòa giải viên được thực hiện trong trường hợp kết quả bầu không có người nào đạt trên 50% đại diện hộ gia đình trong thôn, tổ dân phố đồng ý. Việc bầu bổ sung hòa giải viên được thực hiện trong trường hợp kết quả bầu không đủ số lượng hòa giải viên để thành lập Tổ hòa giải theo quyết định của Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã.

          + Trường hợp bầu hòa giải viên bằng hình thức biểu quyết công khai hoặc bỏ phiếu kín tại cuộc họp đại diện các hộ gia đình trong thôn, tổ dân phố, thì việc bầu lại hoặc bầu bổ sung hòa giải viên được tiến hành ngay tại cuộc họp đó.

          + Trường hợp bầu hòa giải viên bằng hình thức phát phiếu lấy ý kiến các hộ gia đình, thì thời gian tổ chức bầu lại hoặc bầu bổ sung hòa giải viên do Trưởng ban công tác Mặt trận quyết định trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày tổ chức bầu trước đó.

          + Tổ bầu hòa giải viên dự kiến danh sách mới để bầu lại, bầu bổ sung hòa giải viên.

          - Trường hợp số người được đề nghị công nhận là hòa giải viên lấy theo kết quả bỏ phiếu từ cao xuống thấp nhiều hơn số lượng hòa giải viên được Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã quyết định thì Trưởng ban công tác Mặt trận lập danh sách những người được đề nghị công nhận, trong đó bao gồm những người có số phiếu bằng nhau gửi Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã xem xét, quyết định;

          - Trường hợp tổ hòa giải đã được thành lập đủ số lượng hòa giải viên theo quyết định của Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã, nhưng chưa có hòa giải viên nữ hoặc hòa giải viên là người dân tộc thiểu số, thì Trưởng ban công tác Mặt trận làm văn bản báo cáo Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã. Trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được báo cáo của Trưởng ban công tác Mặt trận, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã xem xét, quyết định việc bầu bổ sung hòa giải viên nữ hoặc hòa giải viên là người dân tộc thiểu số;

          - Nếu việc bầu lại hoặc bầu bổ sung hòa giải viên không đạt kết quả, thì Trưởng ban công tác Mặt trận làm văn bản báo cáo Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã. Trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được báo cáo của Trưởng ban công tác Mặt trận, căn cứ vào yêu cầu thực tiễn, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã xem xét, quyết định số lượng, thành phần tổ hòa giải.

          Với quy định trên, khi người dân trực tiếp tham gia bầu hòa giải viên, nếu có mâu thuẫn, tranh chấp xảy ra, họ cũng dễ dàng chấp nhận hoặc tự nguyện nhờ hòa giải viên tiến hành hoà giải; hòa giải viên sẽ dễ dàng tiếp cận các bên để tìm hiểu thông tin, phân tích, hướng dẫn các bên tự nguyện hòa giải với nhau hoặc thoả thuận được về việc giải quyết mâu thuẫn, tranh chấp phát sinh. Thông qua việc bầu hoà giải viên sẽ giúp cho hòa giải viên nhận thức được ý nghĩa, vai trò, tầm quan trọng của việc hòa giải ở cơ sở, từ đó có ý thức nâng cao trách nhiệm của mình. Qua hoạt động bầu hòa giải viên sẽ góp phần tuyên truyền, giáo dục pháp luật cho người dân, tạo điều kiện để người dân tham gia, giám sát việc thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở.

4. Thôi làm Hòa giải viên

Một người có thể thôi làm hòa giải viên trong 03 trường hợp sau đây:

- Theo nguyện vọng của hòa giải viên;

- Hòa giải viên không còn đáp ứng một trong các tiêu chuẩn của hòa giải viên ở cơ sở

- Hòa giải viên vi phạm nguyên tắc tổ chức, hoạt động hòa giải ở cơ sở hoặc không có điều kiện tiếp tục làm hòa giải viên do bị xử lý vi phạm pháp luật.

          Trường hợp thôi làm hòa giải viên, trong thời hạn 10 ngày, kể từ khi nhận được đề nghị của tổ trưởng Tổ hòa giải về việc thôi làm hòa giải viên, Trưởng ban công tác Mặt trận chủ trì, phối hợp với trưởng thôn, tổ trưởng dân phố xem xét, xác minh, làm văn bản đề nghị Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã ra quyết định thôi làm hòa giải viên

          Trường hợp thôi làm hòa giải viên đối với tổ trưởng tổ hòa giải thì Trưởng ban công tác Mặt trận phối hợp với trưởng thôn, tổ trưởng tổ dân phố làm văn bản đề nghị Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã ra quyết định thôi làm hòa giải viên.

          Quyết định thôi làm hòa giải viên được gửi Ban thường trực Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cấp xã, Trưởng ban công tác Mặt trận, trưởng thôn, tổ trưởng tổ dân phố, hòa giải viên và thông báo công khai ở thôn, tổ dân phố.

          Trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được văn bản đề nghị hoặc báo cáo về việc thôi làm hòa giải viên, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã xem xét, quyết định.Trường hợp không đồng ý với đề nghị của tổ trưởng tổ hòa giải về việc thôi làm hòa giải viên, hòa giải viên kiến nghị để Trưởng ban công tác Mặt trận chủ trì, phối hợp với trưởng thôn, tổ dân phố xem xét, giải quyết.

          Những quy định này đã đánh giá cao vai trò là chất xúc tác của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam với cách nhìn nhận công tâm và khách quan để giúp nhân dân lựa chọn, bình bầu vào Tổ hoà giải các hoà giải viên đầy đủ đạo đức và uy tín đảm đương được công việc, đảm bảo sự thành công cho công tác hòa giải ở cơ sở.

Trần Thị Hồng